Lễ Húy Nhựt Tổ Khai Sơn chùa Hội Phước
Sáng ngày 5-12, tại chùa Hội Phước, Mái Ấm Bồ Đề đã có buổi dự lễ Húy nhựt Tổ Khai Sơn Hội Phước Tự -Thượng Hoằng Hạ Khai.
Xin được trích dẫn tiểu sử :
Cố Hoà thượng Thích Hoằng Khai (1883 – 1945)
Hoà thượng thế danh là Phạm Văn Tiểng, pháp danh Hồng Khê, huý Kiểu Đạo, tự Thiện Minh, sinh năm Quý Mùi (1883) tại làng Minh Lễ tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là Phạm Văn Hữu, thân mẫu là Hồ Thị Thị. Cha mẹ mất sớm, Ngài mồ côi từ nhỏ, sống nương nhờ người chú.
Năm 1897, khi 14 tuổi, Ngài vào Gia Định kiếm sống. Lớn lên, do bản tính hào hiệp lại giỏi võ, Ngài mở trường dạy võ và hay cứu giúp người. Nhưng Ngài sớm ý thức được rằng những bất công xã hội không thể cải tạo bằng vũ lực, cũng như tâm địa xấu xa, độc ác của con người không thể giáo hoá bằng đôi tay, nên Ngài từ bỏ con đường võ nghiệp và dần dần chuyển sang cảm hoá bằng lý lẽ, tình cảm và đạo đức.
Năm 20 tuổi (1902), Ngài đến chùa Bảo An ở Bà Chiểu xin xuất gia, được Hoà thượng Thiện An thu nhận làm đệ tử và đặt pháp tự cho Ngài là Thiện Minh. Về sau Ngài cầu pháp với Tổ Thiên Thai - Huệ Đăng được Tổ đặt pháp hiệu Hoằng Khai.
Năm 1904, Ngài được đăng đàn thọ tam đàn Cụ túc giới ở chùa Khánh Quới, Cai Lậy, Mỹ Tho. Vốn thông minh lại cần mẫn tu học, chẳng bao lâu Ngài thông thuộc kinh luận, giới hạnh tinh nghiêm, đạo tâm dũng mãnh. Khi biết nhân duyên hoá độ của Ngài đã đến, Hoà thượng Bảo An đã cho Ngài đăng đàn giáo chúng tại các trường Hương ở Gia Định, Mỹ Tho, Bến Tre. Từ đó tiếng tăm đạo hạnh của Ngài càng ngày càng lan rộng, Ngài được thỉnh về chùa Hội Phước, xã Tân Thạch, Bến Tre trụ trì và bắt đầu sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh của mình. Chùa Hội Phước khi đó chỉ là một am tranh vách đất, Ngài đã cùng bổn đạo địa phương trùng tu dần dần trở thành một ngôi bảo tự khang trang to lớn.
Do có trình độ Phật học uyên thâm, đức hạnh ưu việt, lại thêm võ nghệ cao cường, tiếng tăm của Ngài mỗi lúc một lan xa, tăng ni mọi miền về thọ học rất đông tại tổ đình Hội Phước. Nhiều bậc cao tăng nổi tiềng trong đạo Phật nhất là ở các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, đã được đào tạo tại nơi đây như Hoà thưọng Phú Thuận và Hoà thượng Phật Quang ở Bến Tre, Hoà thượng Thiên An và Hoà thượng Thiện Bình, các Sư bà Như Hương ở Từ Nghiêm, Sư bà Vạn Phước ở Kim Sơn vv..
Có thể nói, tổ đình Hội Phước trong thời kỳ giáo hoá của Ngài là một đạo tràng tu học của các tăng ni rất sùng thịnh. Riêng Ngài còn là Pháp sư giảng dạy kinh Pháp Hoa, luật Trường hàng và bộ Qui Ngươn Trực Chỉ. Chùa Hội Phước do Ngài trụ trì liên tục mở các khoá tu học tăng ni cho đến năm 1938.
Năm ất Dậu 1945, Ngài lâm bệnh nặng, vùng Tân Thạch nơi chùa Hội Phước có chiến tranh lan tới. Ngài chuyển về Bình Đại, Bến Tre để tĩnh dưỡng. Khi tịnh thất cho Ngài làm xong, Ngài vào nhập thất được vài hôm thì viên tịch hưởng thọ 63 tuổi, 41 năm tuổi đạo. Đó là ngày 11 tháng 11 năm Ât Dậu (15.12.1945)
Hoà thượng Thích Hoằng Khai, vị danh tăng họ Phạm, thực sự xứng danh là một vị cao tăng có nhiều công đức đào tạo tăng ni cho Phật pháp, phụng sự sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh của Phật giáo Việt Nam.
Cố Hòa thượng Thượng Hoằng Hạ Khai lúc sinh thời đã giáo hóa được rất nhiều đệ tử nên buổi lễ húy nhựt hôm nay có sự tham dự của rất đông các Phật tử, thiện nam tín nữ nhiều nơi, kể cả ở các tỉnh khác như :Tiền Giang, Đồng Tháp...Cố Hoà thượng Thích Hoằng Khai (1883 – 1945)
Hoà thượng thế danh là Phạm Văn Tiểng, pháp danh Hồng Khê, huý Kiểu Đạo, tự Thiện Minh, sinh năm Quý Mùi (1883) tại làng Minh Lễ tỉnh Quảng Trị. Thân phụ là Phạm Văn Hữu, thân mẫu là Hồ Thị Thị. Cha mẹ mất sớm, Ngài mồ côi từ nhỏ, sống nương nhờ người chú.
Năm 1897, khi 14 tuổi, Ngài vào Gia Định kiếm sống. Lớn lên, do bản tính hào hiệp lại giỏi võ, Ngài mở trường dạy võ và hay cứu giúp người. Nhưng Ngài sớm ý thức được rằng những bất công xã hội không thể cải tạo bằng vũ lực, cũng như tâm địa xấu xa, độc ác của con người không thể giáo hoá bằng đôi tay, nên Ngài từ bỏ con đường võ nghiệp và dần dần chuyển sang cảm hoá bằng lý lẽ, tình cảm và đạo đức.
Năm 20 tuổi (1902), Ngài đến chùa Bảo An ở Bà Chiểu xin xuất gia, được Hoà thượng Thiện An thu nhận làm đệ tử và đặt pháp tự cho Ngài là Thiện Minh. Về sau Ngài cầu pháp với Tổ Thiên Thai - Huệ Đăng được Tổ đặt pháp hiệu Hoằng Khai.
Năm 1904, Ngài được đăng đàn thọ tam đàn Cụ túc giới ở chùa Khánh Quới, Cai Lậy, Mỹ Tho. Vốn thông minh lại cần mẫn tu học, chẳng bao lâu Ngài thông thuộc kinh luận, giới hạnh tinh nghiêm, đạo tâm dũng mãnh. Khi biết nhân duyên hoá độ của Ngài đã đến, Hoà thượng Bảo An đã cho Ngài đăng đàn giáo chúng tại các trường Hương ở Gia Định, Mỹ Tho, Bến Tre. Từ đó tiếng tăm đạo hạnh của Ngài càng ngày càng lan rộng, Ngài được thỉnh về chùa Hội Phước, xã Tân Thạch, Bến Tre trụ trì và bắt đầu sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh của mình. Chùa Hội Phước khi đó chỉ là một am tranh vách đất, Ngài đã cùng bổn đạo địa phương trùng tu dần dần trở thành một ngôi bảo tự khang trang to lớn.
Do có trình độ Phật học uyên thâm, đức hạnh ưu việt, lại thêm võ nghệ cao cường, tiếng tăm của Ngài mỗi lúc một lan xa, tăng ni mọi miền về thọ học rất đông tại tổ đình Hội Phước. Nhiều bậc cao tăng nổi tiềng trong đạo Phật nhất là ở các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, đã được đào tạo tại nơi đây như Hoà thưọng Phú Thuận và Hoà thượng Phật Quang ở Bến Tre, Hoà thượng Thiên An và Hoà thượng Thiện Bình, các Sư bà Như Hương ở Từ Nghiêm, Sư bà Vạn Phước ở Kim Sơn vv..
Chùa Hội Phước mùa Vu Lan năm Canh Dần (2010) Ảnh: dongquangus |
Năm 1939, Ngài về trụ trì chùa Thiên Phước. Năm 1940, Ngài lại tiếp tục khai trương trường Hương, mở trường Kỳ tại chùa Thiên Phước đào tạo tăng ni phụng sự Phật pháp.
Năm Tân Tỵ 1941, do sức khoẻ kém, Ngài rời chùa Thiên Phước, trở về tổ đình Hội Phước để chuyên tu và dưỡng bệnh.Năm ất Dậu 1945, Ngài lâm bệnh nặng, vùng Tân Thạch nơi chùa Hội Phước có chiến tranh lan tới. Ngài chuyển về Bình Đại, Bến Tre để tĩnh dưỡng. Khi tịnh thất cho Ngài làm xong, Ngài vào nhập thất được vài hôm thì viên tịch hưởng thọ 63 tuổi, 41 năm tuổi đạo. Đó là ngày 11 tháng 11 năm Ât Dậu (15.12.1945)
Hoà thượng Thích Hoằng Khai, vị danh tăng họ Phạm, thực sự xứng danh là một vị cao tăng có nhiều công đức đào tạo tăng ni cho Phật pháp, phụng sự sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh của Phật giáo Việt Nam.
Nhận xét
Đăng nhận xét